Công nghệ Thủ thư

Sự gia tăng vai trò của công nghệ trong các Thư viện có một tác động đáng kể trong sự thay đổi vai trò của người Thư viện viên. Công nghệ mới đã làm tăng một cách vô cùng to lớn khả năng kết nối với thông tin, và các Thư viện viên đang điều chỉnh để thích ứng với nhu cầu đang dần thay đổi của người dùng tin, cái mà xuất hiện từ sự điều chỉnh của những công nghệ mới này.[42][43] Các Thư viện viên kĩ thuật số đã trở nên phổ biến trong thời đại Thông tin, quá phổ biến để mà một khái niệm mới đã được tạo ra để chỉ những Thư viện viên kĩ thuật số này: “Cybrarian”, là một từ ghép của từ “cyber” (Internet) và “librarian”. Thuật ngữ “Cybrarian” được dùng lần đầu tiên bởi Michel Bauwens, một nhân viên thông tin tại BP Nutrition tại Antwerp, Belgium, quan tâm đặc biệt đến thông tin và vai trò mà công nghệ đóng góp trong một Thư viện truyền thống.[44]

Một ví dụ tiêu biểu về cách mà Công nghệ thay đổi vai trò của các Thư viện viên trong 50 năm qua đó là sự thay đổi từ mục lục truyền thống sang mục lục công cộng trực tuyến (OPACs).[2] Các Thư viện viên buộc phải phát triển các phần mềm và chuẩn biên mục MARC cho biểu ghi thư mục điện tử. Họ buộc phải mua và sử dụng các máy vi tính phù hợp với các phần mềm. Các Thư viện viên buộc phải dạy cho mọi người sử dụng Công nghệ mới và thay đổi dần sang môi trường làm việc ảo

Một ví dụ tiêu biểu tương tự là dữ liệu điện tử (bao gồm Internet), đến những chức năng logic khác như là “bar code” (hay trong tương lai gần là RFID). Nhiều Thư viện viên cung cấp dịch vụ hỏi đáp trực tuyến (thông qua chat trên mạng, tin nhắn, thư điện tử),[45] làm việc độc lập trong môi trường mạng, dạy những kĩ năng tìm kiếm thông tin và các lớp học công nghệ đến người dùng tin, và làm việc cho sự phát triển kiến trúc thông tin để cải thiện khả năng kết nối và chức năng tìm kiếm thông tin. Những ví dụ này phác họa phần nào việc các Thư viện viên sử dụng công nghệ để hỗ trợ và mở rộng vai trò của họ.

Các Thư viện viên phải liên tục điều chỉnh để thích ứng với những hình thức mới của Thông tin, như là tạp chí điện tử và sách điện tử, cái mà tạo ra cả thách thức và cơ hội trong việc cung cấp sự kết nối và giới thiệu họ đến người dùng tin của Thư viện.[43]

Sự gia tăng những lợi ích của công nghệ tạo ra khả năng tự động hóa trong một số công đoạn của Thư viện. Trong năm 2004, một nhóm nhà nghiên cứu tại Tây Ban Nha đã phát triển UJI Online Robot. Người máy này có khả năng tìm vị trí trong Thư viện, tìm kiếm những cuốn sách riêng, khi tìm thấy nó, cẩn thận lấy nó từ kệ và chuyển đến tay người dùng tin.[14] Vì những chức năng của người máy là khá giới hạn, sự giới thiệu nó vào Thư viện có thể tạo ra một số rắc rối nhỏ cho các Thư viện viên mà công việc của họ không đơn giả chỉ là thu hồi sách.

Gần đây, hơn 100 Thư viện tại Mĩ đã bắt đầu thêm máy in 3D đến bộ sưu tập của họ để nỗ lực phổ biến cho người dùng tin công nghệ mới nhất.[46]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thủ thư http://alia.org.au/education/ http://www.alia.org.au/education/qualifications/li... http://www.alia.org.au/education/qualifications/te... http://www5.hrsdc.gc.ca/NOC/English/NOC/2006/Profi... http://www5.hrsdc.gc.ca/NOC/English/NOC/2006/Quick... http://3dprint.com/53234/3d-systems-100-libraries/ http://eds.a.ebscohost.com/eds/pdfviewer/pdfviewer... http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... http://www.bls.gov/oco/ocos068.htm http://www.bls.gov/oco/ocos068.htm/